Người theo dõi

Thứ Năm, 6 tháng 1, 2011

Tiêu chuẩn đứng tên tác giả bài báo khoa học

Đêm qua, một anh bạn vong niên bên Việt Nam gọi điện qua nói rằng mới đọc bài viết của tôi trên Tia Sáng báo giấy số ra ngày 2/11/2010. Thật ra, bài này thật ra đã đăng trên Tia Sáng online, và sau đó được báo Tuần Việt Nam đăng lại với một tựa đề “giật gân” hơn: Cướp công khoa học và những "con ma tác giả".  Nay tôi lấy về “nhà” để tham khảo và giới thiệu cùng các bạn. Một bài khác nói về một khía cạnh khác cũng đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Anh bạn tôi hỏi về sự việc khám phá insulin cũng là một trường hợp cướp công và đề nghị tôi nói qua vụ này ...
Anh bạn tôi nói chuyện “cướp công” trong khoa học thì xảy ra ở VN nhiều lắm (tôi muốn nói thêm rằng ở ngoài cũng thế thôi).  Nhiều người dùng quyền sếp của mình gây áp lực cho cấp dưới phải để tên họ vào tác giả bài báo khoa học.  Anh hỏi sao không nhắc đến vụ Banting khi nói đến “cướp công” trong khoa học. Thật ra, tôi cũng có đề cập vụ này trong một bài khác.  Nhân dịp này, tôi muốn nhắc lại câu chuyện khám phá insulin mà có lẽ các bạn chưa biết hay đã quên câu chuyện ...
Năm 1923, hai ông Banting và MacLeod được trao giải Nobel nhờ vào công trình nghiên cứu về insulin.  Giải thưởng này đã bị chất vấn ngay từ lúc Hội đồng Nobel công bố.  MacLeod là giáo sư và trưởng phòng thí nghiệm, nơi mà Banting và một đồng nghiệp trẻ tuổi tên là Charles Best làm việc.   Hai người có công khám phá insulin là Banting và Best (vì lúc đó MacLeod không có mặt trong phòng thí nghiệm vì ông đi công tác xa).  Thế nhưng trớ trêu thay, chỉ có Banting và MacLeod, mà không phải Banting, là người được trao giải!  (Thực ra, sau này Best cũng được tiến cử nhiều lần, nhưng ông không có cơ duyên được trao giải.).
Nói chuyện “lọt sổ” không thể nào bỏ qua chuyện khám phá DNA, đó là trường hợp của ông Oswald T. Avery.  Ông Avery là người đầu tiên khám phá và định nghĩa DNA là một chất liệu di truyền.  Ông công bố khám phá này vào năm 1944.  Trong thời gian từ 1932 đến 1942, Avery đã được tiến cử nhiều lần như không được trao giải.  Kể từ năm 1945, ông được tiến cử hàng năm, nhưng thời gian đó, giới nghiên cứu khoa học chưa chịu nhìn nhận thuyết của Avery vì họ không nghĩ là DNA chỉ đơn giản có 4 mẫu tự mà lại có chức năng “chất liệu di truyền”, họ nghĩ protein mới chính là chất liệu di truyền.  Đến khi (sau này) cộng đồng khoa học chấp nhận ý tưởng của Avery thì ông đã qua đời, và Ủy ban Nobel không có lệ trao giải thưởng cho người đã chết!
Nói chung, vấn đề công trạng trong khoa học là một câu chuyện dài và phức tạp.  Ngày nay, cac tập san y sinh học có qui định cụ thể là mỗi tác giả phải “kể công” mình đóng vai trò gì trong bài báo, để độc giả có thể tự đánh giá họ xứng đáng đứng tên tác giả hay không.  Qui định này xem ra càng ngày càng phổ biến, nhưng có lẽ nó chỉ thành công ở các nước có văn hóa phương Tây, chứ ở Việt Nam hay Trung Quốc thì chắc … hơi khó. :-)
NVT
===
Tiêu chuẩn đứng tên tác giả bài báo khoa học
Một trong những vấn đề tế nhị nhất trong hoạt động khoa học là xác định ai xứng đáng đứng tên tác giả bài báo khoa học.  Vấn đề này đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong quá khứ, có thể biến bạn thành thù rất dễ dàng.  Sự kiện đạo văn gần đây ở nước ta lại đặt ra câu hỏi: những tiêu chuẩn để đứng tên tác giả bài báo khoa học là gì. Bài này sẽ trình bày và bình luận chung quan câu hỏi đó.
Một công trình nghiên cứu, nhất là nghiên cứu thực nghiệm, thường đòi hỏi sự cộng tác của nhiều chuyên gia.  Ngày nay, rất hiếm thấy trường hợp một nhà khoa học thực hiện được một công trình từ A đến Z.  Quá trình tiến bộ của khoa học đòi hỏi một công trình nghiên cứu phải có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học với những chuyên ngành khác nhau. Do đó, không phải là ngẫu nhiên khi có những bài báo trong ngành vật lí và y học có đển 500 tác giả, và danh sách tác giả phải in trong một phụ trang.
Trong điều kiện đó, việc đánh giá công trạng của từng tác giả trong bài không phải là việc làm đơn giản.  Không đơn giản là vì việc đứng tên và thứ tự tác giả trong bài báo còn phụ thuộc vào “văn hóa ngành”.  Chẳng hạn như trong ngành y và vật lí, các sếp thường đứng tên sau cùng trong danh sách tác giả, dù đóng góp của họ quan trọng.  Do đó, nếu không hiểu văn hóa ngành thì không thể nào đánh giá được mức độ đóng góp của mỗi tác giả cho công trình khoa học.
Nhưng một vấn đề khó khăn hơn là xác định ai xứng đáng được đứng tên tác giả trong một bài báo khoa học.  Ở nước ta, vấn đề này có vẻ trầm trọng hơn, nhưng ít khi nào được bàn đến.  Rất nhiều nghiên cứu sinh phàn nàn rằng trong khi họ phải cật lực làm nghiên cứu, các thầy cô lại dành quyền đứng tên tác giả bài báo khoa học.  Một điều khá trớ trêu là dù khoa học giải quyết được rất nhiều vấn đề của nhân loại, nhưng đứng trước vấn đề tác giả thì khoa học có vẻ trở nên … bất lực!  Đối với người ngoài khoa học, người ta tưởng khoa học là một trường dân chủ và khách quan, nhưng trong thực tế thì có khi rất phản dân chủ và hoàn toàn chủ quan, nhất là trong vấn đề tác giả bài báo.
Thế thì một câu hỏi then chốt đặt ra: Trong một công trình nghiên cứu qui mô, ai là người hội đủ tiêu chuẩn đứng tên tác giả trong một bài báo khoa học?  Trả lời câu hỏi này không đơn giản chút nào, bởi vì câu trả lời, như đề cập trên, còn tùy thuộc vào “văn hóa” làm việc của từng trung tâm nghiên cứu hay trường đại học, tùy thuộc vào cảm nhận cá nhân (và chủ quan) của các thành viên trong công trình nghiên cứu.  Một công trình nghiên cứu thực nghiệm từ khi phát sinh ý tưởng cho đến khi hoàn tất là cả một dây chuyền liên tục, với sự đóng góp của nhiều thành viên với nhiều chuyên môn khác nhau.  Vì thế, có thể nói bất cứ thành viên nào cũng cảm thấy đóng góp của mình là quan trọng (với suy nghĩ kiểu “không có tôi thì công trình nghiên cứu sẽ không thành công”), nhưng mức độ đóng góp phải khác nhau.  Do đó, việc xác định ai có tư cách đứng tên tác giả đòi hỏi những tiêu chuẩn khách quan.
Tiêu chuẩn
Năm 1985, Ủy ban tổng biên tập các tập san y học (International Committee of Medical Journal Editors – ICMJE, còn gọi là Vancouver Group) đề ra 3 tiêu chuẩn cho một tác giả bài báo khoa học.  Năm 2000, 3 tiêu chuẩn này được hiệu đính lại, và được giới khoa học quốc tế công nhận là những tiêu chuẩn vàng để qui quyền tác giả.  Theo định nghĩa của ICMJE [4], một thành viên nghiên cứu có tư cách đứng tên tác giả phải hội đủ tất cả 3 tiêu chuẩn sau đây:

  • một là đã có đóng góp quan trọng trong việc hình thành ý tưởng và phương pháp nghiên cứu, hay thu thập dữ kiện, hay phân tích và diễn dịch dữ kiện;
  • hai là đã soạn thảo bài báo hay kiểm tra nội dung tri thức của bài báo một cách nghiêm túc; và
  • ba là phê chuẩn bản thảo sau cùng để gửi cho tập san.
Định nghĩa của ICMJE nói cụ thể là những người chỉ có công tìm tài trợ, chỉ có công thu thập dữ kiện, hay chỉ có công lãnh đạo một nhóm nghiên cứu không có quyền đứng tên tác giả nếu như không hội đủ ba tiêu chuẩn trên đây [4].
Thật ra, những tiêu chuẩn trên đây cũng vẫn còn khá chung chung, và có thể được diễn dịch khác nhau tùy theo quan điểm của tác giả.  Do đó, Tập san Lancet triển khai 3 tiêu chuẩn trên thành 10 đóng góp cụ thể như sau:

  1. Soạn thảo bài báo: đây là những người viết bản thảo đầu tiên của bài báo, và những người tham gia kiểm tra, biên tập, và viết bản thảo cuối cùng;
  2. Thiết kế nghiên cứu: là những người đã từng tham gia vào việc thảo luận phương cách tiến hành nghiên cứu ngay từ lúc công trình nghiên cứu mới bắt đầu.  Có khi một công trình nghiên cứu có nhiều chủ đề khác nhau cần giải quyết, và mỗi bài báo tập trung vào một vấn đề cá biệt.  Trong trường hợp này, người “thiết kế nghiên cứu” có thể kể cả những người đã có công thảo luận về cách chọn dữ kiện, hay chọn đối tượng trong công trình nghiên cứu cho vấn đề cần giải quyết.
  3. Phân tích hay diễn giải dữ kiện: là những người tham gia vào việc phân tích dữ kiện, và diễn giải những kết quả phân tích.  Hai chữ “phân tích” ở đây phải được hiểu rộng hơn, bao gồm các đóng góp chung về những chỉ tiêu lâm sàng để nghiên cứu và chiến lược phân tích, chứ không theo nghĩa hẹp là phân tích số liệu.
  4. Thu thập dữ kiện: là những người đã tham gia vào việc thiết kế các phương tiện và trực tiếp thu thập dữ kiện, như bác sĩ phỏng vấn bệnh nhân, đo lường áp suất máu, v.v…
  5. Điều hợp công trình nghiên cứu: là những người trực tiếp quản lí công trình nghiên cứu.
  6. Phân tích lâm sàng: là những người trực tiếp tham gia vào việc chẩn đoán bệnh tật, hay diễn giải các các chỉ tiêu lâm sàng trong công trình nghiên cứu.
  7. Phân tích cơ bản: là những người trực tiếp tham gia vào việc đo lường các chỉ tiêu lâm sàng trong phòng thí nghiệm, như phân tích cholesterol, ước tính CD4, mật độ chất khoáng trong xương, v.v…
  8. Phân tích thống kê: là những người trực tiếp tham gia vào việc phân tích các số liệu bằng các phương pháp thống kê.  Thường thường đây là những nhà thống kê học.
  9. Cố vấn về thiết kế nghiên cứu: là những người đã từng cố vấn trong việc tiến hành nghiên cứu ngay từ lúc công trình nghiên cứu mới bắt đầu.  Thường thường đây là những chuyên gia về thống kê học.
  10. Quản lí dữ kiện: trong các công trình nghiên cứu lớn, số lượng dữ kiện thu thập rất đồ sộ, và nhu cầu cho việc quản lí dữ kiện cũng rất lớn.  Do đó, những người có công quản lí database cũng được ghi nhận.  Thông thường đây là những chuyên gia vi tính.
Nhưng trong thực tế không một tác giả nào có thể hội đủ 10 điều kiện trên.  Vì thế, một “thỏa thuận” chung là: tác giả bài báo khoa học phải hội đủ tất cả 3 tiêu chuẩn của ICMJE, nhưng họ phải tự mô tả cụ thể là họ đã đóng vai trò gì trong bài báo hay trong công trình nghiên cứu, dựa vào 10 đóng góp trên đây.
Trên nguyên tắc là như thế, nhưng còn trong thực tế thì sao?  Trong thực tế, có người chỉ có một đóng góp trong 10 tiêu chuẩn trên cũng đứng tên tác giả bài báo!  Và thực tế này làm cho nhiều người quan tâm.  Thật vậy, vấn đề tác giả bài báo khoa học đã và đang (và có thể sẽ) là một vấn đề được nhiều người trong giới khoa học, kể cả biên tập của các tập san khoa học, quan tâm.  Theo một phân tích công bố trên tập san JAMA vào năm 1998, các nhà nghiên cứu điểm qua tất cả các bài báo trên 6 tập san y học lớn nhất và phát hiện một số sự thật không mấy tích cực: 19% các bài báo có những “tác giả danh dự” (honorary authors, tức là các tác giả có tên trong bài báo mà không đáp ứng các tiêu chuẩn để đứng tên tác giả); 11% có hiện tượng “tác giả ma” (ghost authors, tức là những người có cống hiến quan trọng đáng lẽ xứng đáng đứng tên tác giả, nhưng lại không có tên trong danh sách tác giả) [1].  Trong một phân tích công phu 1068 bài báo công bố trên tập san Radiology từ năm 1998 đến 2000, các nhà nghiên cứu Hàn Quốc cho thấy gần 1 phần 3 các tác giả có tên trong các bài báo này không đủ tiêu chuẩn để đứng tên tác giả [2].
Trong một phân tích khác, tác giả tập trung vào các bài báo trên tập san quang tuyến học Roentgenology, và muốn biết có bao nhiêu tác giả có tên trong các bài báo khoa học nhưng không xứng đáng [2].  Tác giả phát hiện trong những bài báo có 3 tác giả, có khoảng 9% tác giả không xứng đáng có tên; và trong những bài báo có 6 tác giả trở lên, có khoảng 30% tác giả không xứng đáng có tên trong bài báo!  Ai là những tác giả không xứng đáng này?  Theo nhà nghiên cứu, họ là những bác sĩ cung cấp bệnh nhân cho nghiên cứu (29%), những người có quyền thế có thể gây khó khăn cho các tác giả khác (40%).  Ngoài ra, chỉ có 80% bài báo mà bản thảo được tất cả các tác giả đọc; nói cách khác, có đến 20% bài báo mà có khi tác giả có tên nhưng chẳng bao giờ đọc qua [3].
Vị trí của tác giả
Như nói trên, nghiên cứu khoa học ngày nay là một công trình của một tập thể.  Do đó, không ngạc nhiên khi thấy khoảng 50% các bài báo khoa học trên các tập san y học có 5 tác giả trở lên.  Vấn đề đặt ra là cách sắp xếp thứ tự trong danh sách tác giả của bài báo phải như thế nào để phản ánh công trạng của thành viên tham gia trong công trình nghiên cứu.  Trên nguyên tắc, thứ tự tác giả phải dựa vào mức độ đóng góp của tác giả.  Người có đóng góp nhiều nhất hay quan trọng nhất phải là tác giả số 1; người có công quan trọng kế tiếp phải là tác giả số 2, vân vân.
Thế nhưng trong thực tế thì sự việc không xảy ra như trên lí thuyết.  Cái khó khăn chính là không có cách nào để đo lường đóng góp của tác giả một cách đáng tin cậy và khách quan.  Chẳng hạn như rất khó mà phân biệt một “đóng góp quan trọng” (major contribution) và “đóng góp một phần” (partial contribution).  Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cụ thể, việc phân biệt cũng không mấy khó khăn.  Ví dụ như đề xuất mô hình và tiến hành phân tích dữ kiện và diễn giải kết quả phân tích là một “đóng góp lớn” (bởi vì điều này đòi hỏi một khả năng chuyên môn cao), nhưng phân loại nguyên nhân tử vong thì đó là một đóng góp nhỏ (vì nó tương đương với một việc làm hành chính) dù rất tốn thì giờ.
Theo kinh nghiệm của người viết bài này, trong lĩnh vực nghiên cứu y học, các tác giả đầu (số 1) thường là những nghiên cứu sinh hay những người có đóng góp nhiều nhất cho bài báo và công trình nghiên cứu, và trong trường hợp tác giả số 1 là nghiên cứu sinh, tác giả số 2 thường là thầy cô hay người hướng dẫn của nghiên cứu sinh, và tác giả sau cùng có thể là người đứng đầu của nhóm nghiên cứu hay người có đóng góp ít nhất.  Còn những người còn lại thì có thể là những người có ít nhiều đóng góp trong 10 tiêu chuẩn trên.  Nhưng như đề cập trên, trong thực tế cũng có nhiều tác giả có tên trong danh sách chỉ là tác giả danh dự, chứ chẳng có đóng góp gì vào công trình nghiên cứu, hay có đóng góp nhưng mức độ công trạng không xứng đáng là một tác giả.
Trong một nghiên cứu công bố trên Tập san Annals of Internal Medicine [5], Yank và Rennie thẩm định 115 bài báo công bố trên Tập san Lancet từ tháng 7/1997 đến 12/1997, với 785 tác giả (tính trung bình khoảng 7 tác giả trên một bài báo).  Trong số 115 bài báo này, khi đối chiếu lại với 3 tiêu chuẩn “vàng” của ICMJE, chỉ có 56% các tác giả hội đủ 3 tiêu chuẩn mà thôi!  Nói cách khác, có đến 44% các tác giả có tên trong bài báo nhưng không hội đủ 3 tiêu chuẩn của ICMJE.  Khi phân tích theo thứ tự tác giả, số lượng tác giả hội đủ cả 3 tiêu chuẩn như sau: tác giả số 1 (71%), tác giả 2 (60%), tác giả 3 (47%), tác giả chót (69%).  Như vậy có khoảng 40% đến 53% các tác giả thứ 2 và thứ 3 không hội đủ3 tiêu chuẩn để đứng tên tác giả.  Ngay cả trong cách tác giả số 1, có đến gần 30% không hội đủ 3 tiêu chuẩn để đứng tên tác giả!
Như đã trình bày trên, bản chỉ dẫn của ICMJE đặc biệt nhấn mạnh rằng những người có công trong việc thu thập dữ kiện, giám thị hay người hướng dẫn, và tìm nguồn tài trợ cho công trình nghiên cứu không đủ điều kiện để đứng tên tác giả nếu không hội đủ 3 điều kiện chính.  Thế nhưng trong thực tế, rất ít ai tuân thủ theo chỉ dẫn này!  Phân tích của V. Yank và D. Rennie cho biết có đến35% tác giả là những người tham gia thu thập dữ kiện nhưng không hội đủ cả 3 điều kiện; 36% tác giả là những người giám thị nhưng không hội đủ cả 3 điều kiện; và 8% tác giả là những người có công tìm nguồn tài trợ nhưng không hội đủ cả 3 điều kiện.
Khi phân tích theo 10 tiêu chuẩn phụ, Yank và Rennie cho thấy tác giả số 1 và tác giả chót thường là những người trực tiếp tham gia vào việc soạn thảo bài báo; ngược lại, tác giả số 2 và số 3 thường là những người đã làm công tác phân tích thống kê và quản lí số liệu (xem bảng thống kê số 1).  Các phân tích này cho thấy dù một bài báo có nhiều tác giả, nhưng trong thực tế chỉ có 3 hay bốn tác giả (số 1, 2, 3 và tác giả chót) là có đóng góp đáng kể mà thôi, phần còn lại có thể nói chỉ là những “tác giả danh dự” hay tác giả không hội đủ điều kiện để đứng tên tác giả.
Vài nhận xét
Cụm từ “tác giả” là dịch từ chữ “Author” trong tiếng Anh, và từ Author có nguồn gốc Latin là “Auctor” có nghĩa nguyên thủy là người có uy tín hay người có thẩm quyền.  Đứng tên tác giả một bài báo khoa học, hiểu theo nghĩa này, cũng có đồng nghĩa với tạo cho mình một uy tín và thẩm quyền, và quan trọng hơn hết là phải chịu trách nhiệm trước công chúng về các phát biểu trong bài báo.  Về mặt cá nhân nhà nghiên cứu, đứng tên tác giả trong bài báo khoa học không chỉ là một phần thưởng, mà còn là viên gạch quí báu để xây dựng sự nghiệp.  Do đó, không ngạc nhiên khi thấy nhiều người tranh đua nhau, thậm chí gây hấn nhau, để đứng tên tác giả một bài báo.
Như vừa trình bày, trong thực tế, có rất nhiều tác giả không xứng đáng và không hội đủ điều kiện để đứng tên tác giả nhưng lại có tên trong bài báo.  Ngược lại, cũng có nhiều người mà mức độ cống hiến đáng lẽ hội đủ điều kiện để đứng tên tác giả, nhưng lại không có tên trong bài báo và trở thành những “tác giả ma” – ghost authors!  Điều này dẫn đến một hệ quả là có nhiều tác giả có tên trong bài báo mà không hề biết gì về nội dung của bài báo!  Tôi từng xem lí lịch khoa học của một số nhà khoa học “lớn” với 500 đến 700 bài báo khoa học, nhưng khi tôi hỏi một vài bài một cách ngẫu nhiên, tác giả chỉ cười cho biết đó là công trình hợp tác với người khác, không nhớ thậm chí không biết viết gì trong đó!  Nói cách khác, họ có tên trong bài báo nhưng chẳng quan tâm đến nội dung bài báo, và tỏ ra vô trách nhiệm trước công chúng.  Rất tiếc, đây là một tình trạng rất phổ biến ngày nay.
Ngay cả vị trí của tác giả trong bài báo cũng không phản ánh chính xác mức độ cống hiến của tác giả.  Nhưng nói chung, chỉ có tác giả số 1, 2, 3 và tác giả chót là những người thực sự có đóng góp quan trọng cho bài báo.  Một trong những nguyên nhân cho tình trạng này là vì các trung tâm nghiên cứu và đại học không có một chính sách cụ thể để các nhà nghiên cứu dựa vào đó mà phân nhiệm.  Trong vài trường hợp, nếu có chính sách, thì các nhà nghiên cứu lại không đồng ý về việc thi hành.  Có người cho rằng các bác sĩ thu thập dữ kiện hay các “sếp” của nhóm nghiên cứu nhất định phải có tên trong bài báo dù họ chẳng biết bài báo nói về vấn đề gì!  Họ lí giải rằng nếu không có họ thì công trình nghiên cứu sẽ không bao giờ thành công được.  Thế nhưng cách biện minh này nhầm lẫn giữa tri thức khoa học và công tác hành chính.  Một bài báo khoa học chỉ quan tâm đến khoa học, chứ không phải hành chính.  Theo qui định hiện hành, họ phải được ghi nhận trong phần cảm tạ của bài báo, chứ không thể là tác giả được.  Thế nhưng nếu tác giả đứng bài báo đầu là một nghiên cứu sinh thì tác giả chắc chắn sẽ không dám cãi lại “lệnh” của sếp và việc sếp cho tên trong bài báo trở thành một thông lệ, một thông lệ mà ai cũng biết là thối nát.
Năm 1943, Albert Schatz là một nghiên cứu sinh trẻ tuổi với một sứ mệnh tìm cho được thuốc để điều trị bệnh lao.  Sau vài năm làm việc cật lực, Schatz khám phá thuốc kháng sinh streptomycin và là tác giả của một bài báo khoa học về khám phá này.  Sếp và cũng là người hướng dẫn luận án của Schatz là Selman Waksman, bắt đầu dành công trạng về phía mình, bằng cách làm một cuộc vận động trong giới khoa học rằng ông là người khám phá ra streptomycin và không đề cập gì đến người nghiên cứu sinh của mình!  Trong khi Waksman ngấm ngầm dành công trạng, cậu học trò Schatz hoàn toàn không hay biết gì cả, vì trong thực tế, cả Schatz và Waksman cùng kí tên trong bằng sáng chế (patent) streptomycin.  Nhưng sau vài năm, Schatz mới biết được rằng Waksman đã bí mật kí một hợp đồng và bán bản quyền sáng chế (với một số tiền lớn) cho một công ti dược lớn, và trong hợp đồng này không có tên của Schatz!  Schatz kiện Waksman ra tòa, và phán quyết công ti dược phải trả tiền sáng chế cho Schatz.  Tuy nhiên, với vị thế của mình, vận động của Waksman đã thành công mĩ mãn: ông ta được trao giải thưởng Nobel vào năm 1952 vì “có công khám phá streptomycin.”  Ủy ban Nobel chẳng biết đến Schatz bao giờ và do đó công trạng của anh ta không hề được ghi nhận.  Công trạng của Schatz chỉ mới được tái phát hiện khi giới sử học xem lại quá trình khám phá thuốc kháng sinh quan trọng này [6].
Trong nhiều trung tâm nghiên cứu, thông thường các vị giám thị hay sếp trung tâm tự nhiên ghi tên mình trong các bài báo khoa học do nghiên cứu sinh và nhà nghiên cứu dưới quyền trực tiếp làm.  Nếu các vị này thực sự có cống hiến quan trọng về ý tưởng, thu thập dữ kiện, phân tích, diễn giải và soạn thảo bài báo, thì cũng không có gì sai trong “thông lệ” này.  Nhưng có nhiều trường hợp, các sếp chẳng có cống hiến gì đáng kể cho công trình nghiên cứu, ngoài việc thảo luận đôi ba lần về nghiên cứu và đọc qua bản thảo bài báo, lại có tên trong bài báo, và đó mới là vấn đề cần quan tâm.  Có một số trường hợp tệ hại hơn nữa là nghiên cứu sinh chỉ đứng tên trong phần “Cảm tạ”!
Mặc dù “tập quán” các sếp đứng tên tác giả trong bài báo của các nhà nghiên cứu dưới quyền rất phổ biến, rất nhiều nạn nhân (phần lớn là nghiên cứu sinh) không dám thốt lời phàn nàn, mà chỉ than thở với các nạn nhân khác, vì sợ bị trả thù và trù dập.  Một số thì giữ “thái độ Hàn Tín”, “nín thở qua sông”, chờ lấy cho được học vị tiến sĩ rồi kiếm chỗ khác làm việc.  Khi phàn nàn trên các phương tiện truyền thông công cộng, các nạn nhân cũng không dám kí tên thật.  Chẳng hạn như một lá thư từ một nghiên cứu sinh trên tờ nhật báo The Australian viết: "Nhiều nhà khoa học cấp cao hoặc ăn cắp ý tưởng của nghiên cứu sinh, hoặc không cho phép nghiên cứu có tên trong các bài báo quan trọng.  Tôi cảm thấy đây là một hình thức đạo văn một cách xảo quyệt, nhưng tiếc thay hình thức này không phải là mới.  Đề bạt trong nghiên cứu dựa vào công trạng trong nghiên cứu, tức là bài báo khoa học đã công bố; tuy nhiên nếu có một nhà nghiên cứu trẻ nào đó dám lên tiếng về tình trạng này, thì tương lai của nhà nghiên cứu đó sẽ là một ngõ cụt." [7].
Cái lực đằng sau của hiện tượng “cướp công” trên là tình trạng bất bình đẳng trong quyền lực khoa học.  Những câu chuyện về bóc lột tri thức phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các sếp và giáo sư giữ một vai trò mang tính quyết định tương lai của nghiên cứu sinh hay nhà khoa học dưới cấp.  Trong cơ cấu bất bình đẳng như thế, vấn đề tác giả và tác quyền là một đề tài cấm kị.
Phải làm gì để tránh tình trạng nhập nhằng trong vấn đề quyết định ai là tác giả và vị trí của tác giả trong bài báo ?  Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi nghĩ có thể làm vài việc căn bản sau đây:

  • Trường đại học và trung tâm nghiên cứu cần phải phát triển một chính sách cụ thể về đóng góp trong nghiên cứu, và chỉ rõ các điều kiện cần thiết để các nhà nghiên cứu có thể xác định vị trí của tác giả trong bài báo;
  • Nên hoạch định tác giả và vị trí tác giả trước khi tiến hành nghiên cứu, nhất là trong giai đoạn thảo luận và thiết kế nghiên cứu;
  • Việc hoạch định này phải dựa theo các tiêu chuẩn của ICMJE đề ra, và tất cả các tác giả phải nhất trí trước khi tiến hành nghiên cứu.
  • Mỗi tác giả phải mô tả đóng góp của mình cho công trình khoa học, để qua đó độc giả có thể đánh giá công trạng của từng tác giả.
Đứng tên tác giả một bài báo khoa học là một vinh dự, và góp phần làm nên sự nghiệp cũng như uy tín của nhà khoa học.  Thật vậy, khả năng thành công trong xét duyệt xin đề bạt chức danh khoa bảng, xin tài trợ cho nghiên cứu phụ thuộc một phần lớn vào bài báo khoa học. Nhưng đứng tên tác giả bài báo khoa học còn có nghĩa là nhận lãnh nghĩa vụ, chịu trách nhiệm về nội dung của công trình nghiên cứu. Những người không có khả năng bảo vệ công trình nghiên cứu hay không đồng ý với những quan điểm / phát biểu trong công trình nghiên cứu thì không nên đứng tên tác giả công trình đó.  Một khi một công trình nghiên cứu đã công bố thì công trình đó sẽ được đồng nghiệp quốc tế xăm soi, và tác giả phải có trách nhiệm giải thích cho đồng nghiệp trên thế giới, chứ không thể làm ngơ được.  Thiết nghĩ qua vụ việc đạo văn vừa xảy ra là một cơ hội để chấn chỉnh lại qui định đứng tên tác giả bài báo khoa học và đảm bảo tính liêm chính của khoa học nước ta.
Chú thích:
[1] Flanagin A, et al. Prevalence of articles with honorary authors and ghost authors in peer-reviewed medical journals.  JAMA 1998; 280:222-224.
[2]  Hwang SS, et al.  Researcher contributions and fulfillment of ICMJE authorship criteria.  Radiology 2003; 226:16-23.
[3]  Stone RM.  American Journal of Roentgenology 1996; 167:571-9.  Hơn phân nửa các bài báo khoa học công bố trên tập san American Journal of Roentgenology có hơn 5 tác giả.
[4]  International Committee of Medical Journal Editors.  Uniform requirements for manuscripts submitted to biomedical journals.  JAMA 1997; 3/4277:927-34.  http://www.icmje.org.
[5]  Yank V, Rennie D. Disclosure of researcher contributions: a study of original research articles in the Lancet.  Ann Int Med 1999; 130:661-70.
[6]  Frank Ryan, Tuberculosis: The Greatest Story Never Told (Worcestershire: Swift, 1992); Albert Schatz, "The true story of the discovery of streptomycin," Actinomycetes, Vol. 4, Part 2, 1993, pp. 27-39.
[7]  Kerryn Robinson, "Few rewards for science graduates" (letter), Australian, 21 January 1997, p. 12.
Bảng 1.  Đóng góp trong một các báo khoa học trên tập san Lancet: phần trăm đóng góp

Đóng góp Tác giả số 1 Tác giả số 2 Tác giả số 3 Tác giả chót
1. Soạn thảo bài báo 83.5 67.3 54.3 80.0
2. Thiết kế nghiên cứu 58.3 44.5 38.1 52.2
3. Phân tích hay diễn giải dữ kiện 51.3 38.2 25.7 32.2
4. Thu thập dữ kiện 27.0 27.3 25.7 13.9
5. Điều hợp công trình nghiên cứu 42.6 14.5 15.2 17.4
6. Phân tích lâm sàng 11.3 14.5 19.0 11.3
7. Phân tích cơ bản 7.0 12.7 12.4 9.6
8. Phân tích thống kê 8.7 11.8 12.4 7.0
9. Cố vấn về thiết kế nghiên cứu 7.0 10.9 8.6 15.7
10. Quản lí dữ kiện 5.2 10.9 11.4 1.7
Nguồn: Yank and Rennie, Annals of Internal Medicine 1999; 130:661-70.  Chẳng hạn như con số 83.5% trong cột “Tác giả 1” có nghĩa là 83.5% bài báo là do tác giả 1 soạn thảo.

NVT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét