Người theo dõi

Thứ Năm, 6 tháng 1, 2011

Một vài điều lưu ý khi viết phần tóm tắt khóa luận

Một KL gồm có những phần sau đây: dẫn nhập (introduction), phương pháp (methods), kết quả (results), và thảo luận (discussion).  Cấu trúc này được gọi tắt là cấu trúc IMRAD.  Tuy nhiên, mỗi KL lúc nào cũng có phần tóm lược (abstract) để — như tên gọi — tóm tắt các khía cạnh chính của một công trình nghiên cứu.
Tóm lược (Abstract)
Có 2 loại tóm lược: không có tiêu đề và có tiêu đề.  Loại tóm lược không có tiêu đề là một đoạn văn duy nhất tóm tắt công trình nghiên cứu.  Loại tóm lược có tiêu đề — như tên gọi – là bao gồm nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau đây: Background, Aims, Methods, Outcome Measurements, Results,  Conclusions. Tuy nhiên, dù là có hay không có tiêu đề, thì một bản tóm lược phải chuyển tải cho được những thông tin quan trọng sau đây:
Câu hỏi và mục đích của nghiên cứu.  Phần này phải mô tả bằng 2 câu văn.  Câu văn thứ nhất mô tả vấn đề mà tác giả quan tâm là gì, và tình trạng tri thức hiện tại ra sao.  Câu văn thứ hai mô tả mục đích nghiên cứu một cách gọn nhưng phải rõ ràng.
Phương pháp nghiên cứu.  Cần phải mô tả công trình nghiên cứu được thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm của đối tượng, phương pháp...  Phần này có thể viết trong vòng 4-5 câu văn.
Kết quả.  Trong phần này, tác giả trình bày những kết quả chính của nghiên cứu, kể cả những số liệu có thể lấy làm điểm thiết yếu của nghiên cứu.  Nên nhớ rằng kết quả này phải được trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra từ câu văn đầu tiên.
Kết luận.  Một hoặc 2 câu văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu.  Có thể nói phần lớn độc giả chú tâm vào câu văn này trước khi họ đọc các phần khác, cho nên tác giả cần phải chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút được sự chú ý của độc giả trong 2 câu văn quan trọng này.
Nếu tựa đề bài báo phát biểu về nội dung của công trình nghiên cứu, thì bảng tóm lược cho phép bạn mô tả chi tiết hơn nội dung của công trình nghiên cứu.  Độ dài của bảng tóm lược thường chỉ 200 đến 300 từ (tùy theo qui định).  Bảng tóm lược giúp người đọc nên đọc tiếp bài báo hay bỏ qua bài báo.  Do đó, tác giả cần phải cung cấp thông tin một cách ngắn gọn, nhưng có dữ liệu (chứ không phải chỉ hứa suông) và đi thẳng vào vấn đề (chứ không phải viết lòng vòng).  Tác giả phải chọn từ ngữ rất cẩn thận để phản ảnh một cô đọng những điều mình muốn chuyển tải đến cộng đồng khoa học.
Sau đây là một bản tóm lược tiêu biểu có tiêu đề (bài viết của NVT, 2010).  Bài báo này trình bày một công trình nghiên cứu về mối liên hệ giữa các thành phần cơ thể (mỡ, nạc, xương) ở một nhóm phụ nữ Việt Nam sau mãn kinh (LT Ho-Pham, et al. Contributions of lean mass and fat mass to bone mineral density: a study in postmenopausal women. BMC Musculoskeletal Disorders 2010, 11:59).  Bản tóm lược có 4 tiêu đề: dẫn nhập, phương pháp, kết quả và kết luận. Phần dẫn nhập chỉ tóm gọn trong 2 câu văn, với câu đầu nêu vấn đề vẫn còn trong vòng tranh cãi, và câu 2 phát biểu về giả thuyết và mục đích của nghiên cứu.  Phần phương pháp mô tả số phụ nữ tham gia, độ tuổi, nơi nghiên cứu, phương pháp đo lường, và phương pháp phân tích.  Phần kết quả đi thẳng vào kết quả chính với những con số cụ thể.  Đương nhiên, những con số này sẽ được lặp lại chi tiết hơn trong bài báo.  Phần kết luận chỉ một câu văn có tính cách trả lời câu hỏi nghiên cứu.

Background

The relative contribution of lean and fat to the determination of bone mineral density (BMD) in postmenopausal women is a contentious issue. The present study was undertaken to test the hypothesis that lean mass is a better determinant of BMD than fat mass.

Methods

This cross-sectional study involved 210 postmenopausal women of Vietnamese background, aged between 50 and 85 years, who were randomly sampled from various districts in Ho Chi Minh City (Vietnam). Whole body scans, femoral neck, and lumbar spine BMD were measured by DXA (QDR 4500, Hologic Inc., Waltham, MA). Lean mass (LM) and fat mass (FM) were derived from the whole body scan. Furthermore, lean mass index (LMi) and fat mass index (FMi) were calculated as ratio of LM or FM to body height in metre squared (m2).

Results

In multiple linear regression analysis, both LM and FM were independent and significant predictors of BMD at the spine and femoral neck. Age, lean mass and fat mass collectively explained 33% variance of lumbar spine and 38% variance of femoral neck BMD. Replacing LM and FM by LMi and LMi did not alter the result. In both analyses, the influence of LM or LMi was greater than FM and FMi. Simulation analysis suggested that a study with 1000 individuals has a 78% chance of finding the significant effects of both LM and FM, and a 22% chance of finding LM alone significant, and zero chance of finding the effect of fat mass alone.

Conclusions

These data suggest that both lean mass and fat mass are important determinants of BMD. For a given body size — measured either by lean mass or height — women with greater fat mass have greater BMD.
Bản tóm lược dưới đây là một abstract tiêu biểu không có tiêu đề (LT Ho-Pham, et al.  Similarity in percent body fat between white and Vietnamese women: implication for a universal definition of obesity.  Obesity 2010; 18:1242-6).  Toàn bộ bản tóm lược chỉ là một đoạn văn.  Nhưng nếu chú ý kĩ sẽ thấy những thông tin được trình bày trong abstract tuân thủ theo cấu trúc IMRAD.  Phần dẫn nhập gồm 2 câu văn: câu đầu tiên nêu vấn đề nghiên cứu; câu thứ hai phát biểu mục đích nghiên cứu.  Các câu kế tiếp mô tả phương pháp nghiên cứu, kết quả, và kết luận.
It has been widely assumed that for a given BMI, Asians have higher percent body fat (PBF) than whites, and that the BMI threshold for defining obesity in Asians should be lower than the threshold for whites. This study sought to test this assumption by comparing the PBF between US white and Vietnamese women. The study was designed as a comparative cross-sectional investigation. In the first study, 210 Vietnamese women ages between 50 and 85 were randomly selected from various districts in Ho Chi Minh City (Vietnam). In the second study, 419 women of the same age range were randomly selected from the Rancho Bernardo Study (San Diego, CA). In both studies, lean mass (LM) and fat mass (FM) were measured by dual-energy X-ray absorptiometry (DXA) (QDR 4500; Hologic). PBF was derived as FM over body weight. Compared with Vietnamese women, white women had much more FM (24.8 +/- 8.1 kg vs. 18.8 +/- 4.9 kg; P or=30, 19% of US white women and 5% of Vietnamese women were classified as obese. Approximately 54% of US white women and 53% of Vietnamese women had their PBF >35% (P = 0.80). Although white women had greater BMI, body weight, and FM than Vietnamese women, their PBF was virtually identical. Further research is required to derive a more appropriate BMI threshold for defining obesity for Asian women.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét